Saturday, January 30, 2021

Truyện ngắn: Sao Không Nói Một Lời - Lê Văn Trung

 SAO KHÔNG NÓI MỘT LỜI

LÊ VĂN TRUNG

 http://vietvanmoi.fr/index3.8295.html

Gần mười năm anh mới trở lại chốn này, mười năm trong đời của một con người đâu phải là cái khoảng thời gian ngắn ngủi, thế mà, mười năm đời anh đã lãng phí ở một nơi xa lạ, chôn vùi tuổi thanh xuân của mình một cách oan uổng và đau thương. Mười năm nát bầm da thịt giữa núi rừng. Đói khát. Lạnh giá. Bệnh tật. Nhục nhã. Cô độc. Thương tiếc. Khổ đau. Một đời người nào có nhiều nhặn gì. Anh đã mất đi mười năm như thế.

Cõi trăm năm! Làm gì có cái cõi trăm năm. Nhiều lắm là năm bảy chục năm. Cụ Nguyễn Du đã nói đến: “Trăm năm trong cõi người ta”, ấy là cụ chỉ nói thế, chính cụ cũng chưa đi hết được cái cõi trăm năm. Thế mà nàng Kiều của cụ đã chịu bao nhiêu tủi nhục ròng rã mười lăm năm. Và anh, đã mất tiêu đi mười năm. Mười năm đúng vào cái độ sung mãn nhất của đời người, vào cái độ bừng nở nhất của tinh hoa.

Rồi, sau mười năm dó, anh trở về như con thú già nua, thương tật cả xác và hồn, xa lạ lạc loài như chưa từng sống, chưa từng có mặt. May mà, trong tận cùng ký ức xa xôi, anh vẫn không quên, dù nỗi nhớ rất nhạt nhoà, dầu nỗi nhớ rất mong manh, những con đường xưa cũ, những bóng dáng dĩ vãng, những âm thanh của giọt mưa chiều mùa đông vọng từ bến sông Hoài, tiếng bước chân nhẹ như chiêm bao trên sàn gỗ Lai Viễn Kiều.

Anh phải trở về chốn này, dù chỉ thấy bằng hoài niệm, dù chỉ nghe bằng hồi ức, dù tất cả không còn, dù tất cả tàn phai, dù đã đổi thay, dù đã xa xôi. Và anh đã về. Những bước chân mệt mỏi nhưng lòng anh nao nao. Anh đi xiêu vẹo trong cái gió se lạnh của mùa đông, qua những con đường vắng vẻ và nhỏ hẹp của cái thành phố cổ kính như cổ tích. Những con đường một thời thơ dại đẹp như truyện thần thoại anh đã cùng nàng đi trong hàng trăm chiều mùa đông, hàng trăm chiều mùa thu, hàng trăm chiều mùa xuân, mà lần nào con đường cũng đẹp, trời chiều nào cũng đẹp, và hương ngọc lan mùa nào cũng ngây ngất.

Và bây giờ thì anh đã về rồi, sau gần mười năm vinh nhục ê chề.

***

 

Anh vào một quán ven đường. Quán trống trơn, lạnh ngắt. Bàn ghế bất động không người. Cô chủ quán lạnh lùng cam chịu co người lại sau quầy như không nhìn thấy anh, như chẳng nhìn thấy ai. Đôi mắt cô nhìn vào cái khoảng không trước mặt nhưng anh mơ hồ như cái nhìn đó đang dõi về một quảng đời niên thiếu, của anh, đã qua.

Anh cũng chỉ muốn ngồi nhìn, đường phố vắng hoe, bầu trời xám xịt lạnh lẻo, và nhìn cô sầu não như bức tranh thiếu phụ cô đơn.

Dễ chừng cũng năm phút trôi qua, cô mới uể oải đứng lên đi khuất đằng sau quầy rồi đem ra cho anh bình trà và tách café pha sẵn, chẳng cần biết anh có uống café không, rồi cô cũng lặng lẽ quay vào, ngồi lại sau quầy, bất động, lặng yên, mắt đắm nhìn vào khoảng trời mưa bụi.

***

 

Anh lấy một điếu thuốc, gắn lên môi và châm lửa. Từng vòng khói tan nặng nề vướng vào mắt cay cay chảy nước mắt. Anh không còn khóc được. Mười năm tủi nhục ê chề nước mắt đã chảy xuống rát buốt những vết thương, nước mắt đã chảy xuống trên hai bàn tay chai sạn cố bịt miệng để khỏi bật ra tức tưởi, nước mắt đã nặng nề ứa ra quặn đau, cam đành. Anh đang ngồi đây. Khói thuốc làm cay cay chảy nước mắt. Nhưng anh không còn khóc được. Anh không khóc được nhưng hình như anh vẫn thấy con đường quạnh hiu này nhạt nhoà nước mắt, hình như anh thấy bầu trời xám xịt này đang nặng nề nước mắt. Và anh nhìn cô gái ngồi sau quầy cơ hồ cũng đang khóc dầu đôi mắt u buồn của nàng ráo hoảnh.

Chưa uống hết tách café, nhưng anh muốn đứng lên đi ra ngoài trời, muốn đi dưới cái lạnh se sắt và mưa bay, muốn lang thang qua hết những con đường nhỏ hẹp và vắng hoe. Anh tiến về phía quầy. Cô chủ quán hình như cũng chẳng biểu lộ một cử chỉ nào để đón anh. Anh đến bên quầy, nhìn cánh tay trần của nàng trắng như sữa và gợn những sợi lông tơ đặt yên lặng trên mặt quầy, một ít tóc của nàng rũ hai bên vai nhẹ như một giải lụa. Nàng yên lặng và thờ ơ, như chẳng cần biết có một người đang đứng trước nàng, nhìn đôi cánh tay nàng lạnh lẽo tội nghiệp đặt trên mặt quầy bằng gỗ. Anh cũng không dám phá tan sự yên lặng này. Đành trở lại chỗ cũ, ngồi xuống rất nhẹ, uống một ngụm café lạnh ngắt, châm một điếu thuốc, nhín ra đường không một bóng người.

Có lẽ cô gái chợt thấy mình lơ đãng quá, lạnh lùng quá, và có phần thất lễ với người khách xa lạ và duy nhất này, nàng nhẹ nhàng rời quầy tiến đến sau anh. Dầu cô đang bước đi rất nhẹ nhàng, nhưng anh vẫn cảm thấy cái hơi ấm từ nàng toả ra và một mùi hương rất thoảng len vào hơi thở anh. Anh quay lại ngước nhìn nàng.

-        Chào anh, em xin lỗi…

Giọng nàng nhỏ, trầm lắng và xa xôi.

-        Xin lỗi, em vô tình quá. Anh có phải là…Hình như…

-        Vâng, thưa cô, tôi là người từ xa, trở về, từ rất xa.

-        Không, em thấy anh hơi quen, mà xin lỗi, em không nhớ.

Anh kéo chiếc ghế đối diện.

-        Cô ngồi đi.

Nàng ngoan ngoãn ngồi xuống, ngước đôi mắt buồn nhìn anh, rồi nhìn vào làn khói thuốc là là mặt bàn, tan nhè nhẹ.

-        Anh từ xa về đây? Nhưng từ đâu vậy?

-        Từ địa ngục.

Nàng cười buồn.

-        Em hỏi thật đấy.

-        Tôi cũng không đùa đâu, thưa cô. Từ địa ngục đấy.

Rồi không nhìn nàng, anh nhìn đôi tay chai sạn và đấy vết sẹo của mình:

-        Tôi không đùa đâu. Hãy nhìn tôi đi. Cô thử nhìn tôi có còn giống hình hài của một con người không? Cái hình hài mà Thượng Đế đã tạo ra, tôi có còn nguyên vẹn cái hình hài đó không?

Cô gái nhìn anh, ái ngại, dò xét, lòng nàng thấy xót xa. Người khách lạ, kỳ lạ này, lần đầu tiên đến đây, lần đầu tiên nàng gặp, lần đầu tiên nghe anh nói. Chưa có ai nói chuyện với nàng thế này. Nàng đã ão não sầu héo thế mà nhìn anh, nàng thấy anh còn tội nghiệp hơn.

Anh ở nơi nào tới? Từ cái địa ngục nào tới? Và nơi đây, nơi cái thành phố cổ buồn hiu này, phải chăng còn có cái gì đó tốt hơn cái địa ngục của anh? Phải còn có cái gì đó để anh trở về.

Anh đã trả lời câu hỏi của nàng như thế nên nàng chẳng dám hỏi gì hơn. Nhưng nàng không muốn rời đi. Nàng ngồi im lặng ngìn anh hút thuốc và nhìn màn mưa bụi ngoài trời. Nàng nghe tiếng anh, tiếng nói như vọng về từ một nơi xa khuất:

-        Đêm nay Chúa ra đời, cô biết không? Đêm nay Chúa ra đời.

Ừ nhỉ, nàng nghĩ, đêm nay Giáng Sinh rồi. Ôi Chúa ở nơi cao xa kia, bao giờ thì trần gian bình yên đây! Nàng nhìn người khách lạ ngồi trước mặt mình, nét khắc khổ trên gương mặt anh, những đường nét gãy cạnh, sắc, cứng, chịu đựng, như một bức tượng Chúa trong ngày khổ nạn. Gương mặt này hình như cũng không phải xa lạ lắm đối với nàng. Nàng lục tìm trong ký ức mòn mỏi của mình để cố nhớ ra anh là ai, nhưng đành chịu. Hình ảnh anh hơn mười mấy năm về trước, lúc nàng còn rất trẻ, thoáng hiện ra rồi vụt tắt, nhạt nhòa như màn mưa bụi ngoài kia.

Anh nhìn đôi tay của nàng buông thỏng trên đùi, trắng như sữa, lơ thơ những sợi lông tơ, chợt anh muốn hôn vào đôi cánh tay nàng, và một nỗi quạnh hiu chạy luồng trong anh, chảy ra tận đôi môi khô của anh như một tiếng thở dài.

Anh trả tiền ly café, đứng lên, bước ra cửa, quay lại nhìn người phụ nữ như chào từ biệt và bước đi, anh nghe sau mình tiếng cô:

-        Anh chưa nói cho em biết anh là ai, anh tên gì.

Anh dừng lại, ngập ngừng, không quay lui:

-        Triều, Thủy Triều.

Cô gái hình như kêu lên:” Phải rồi. Đúng là anh ấy. Thủy Triều.” nhưng anh đã khuất nơi ngã tư, lặng lẽ như chẳng hề, trước đó, có anh.

***

 

Anh ngồi chờ nàng nơi phòng khách cạnh văn phòng ban giám hiệu. Một cô gái, có lẽ là nhân viên văn phòng, cũng có thể là một cô giáo, rất trẻ, ăn mặc xuề xoà, đơn giản, đem đến cho anh một tách nước, đã nguội.

-        Mời anh dùng nước.

Một giọng Bắc rất Hà Nội, ngọt và dịu và ân cần. Anh ngước nhìn cô và nói “cám ơn”. Cô gái quay đi, còn vướng lại trong phòng mùi hương bồ kết. Bất giác anh nhớ đến những ngọn đồi thấp thấp vùng quê ngoại mùa này bông mua nở tím, màu tím buồn và đẹp vô cùng. Nơi đây, chốn an nghỉ ngàn đời của mẹ anh, người yêu quí nhất đời anh, mà anh chỉ được cạnh người có sáu năm kể từ khi anh cất tiếng khóc chào đời, người vĩnh biệt trần gian, bỏ lại những người thân yêu, ra đi vĩnh viễn khi người chỉ mới ngoài ba mươi tuổi. Ký ức về người, trong anh, rất mơ hồ. Nếu không có cái di ảnh của người, chắc anh rất khó hình dung ra người. Quê ngoại là bầu trời thơ ấu của anh, một thằng bé mồ côi mẹ. Chị em anh sống nương tựa vào mấy dì, mấy cậu nơi một làng quê nhỏ. Cái làng quê rất bình yên và đẹp như một bức tranh lụa. Cái làng quê mà, sau này lớn lên, anh bắt gặp nó trong tác phẩm nào đó của một nhà văn ở nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tác giả tả làng Từ Lâm. Anh không rõ làng Từ Lâm đó ở đâu, nhưng quê ngoại anh đây, làng Túy Loan cũng đẹp chẳng khác nào làng Từ Lâm kia. Ở đây cũng có núi đồi “ngọn nọ ngọn kia không dứt”, nơi mà chiều chiều anh và bọn trẻ trong làng chạy nhảy nô đùa bên cạnh những con bò đang bình an gặm cỏ, trong cái hương chiều ngạt ngào hoa giủ dẻ. Nơi mà, anh và các bạn nhỏ, những buổi trưa trời trong như lọc, nằm lăn trên bãi cát trắng mịn nghe tiếng chim sơn ca cao vút trên không. Dòng sông nhỏ, mặt nước như gương, thấy rõ những con cá cấn cá mại lượn lờ, thấy rõ những viên sỏi nhiều màu sắc nằm lẫn trong cát màu vàng nhẹ. Anh ngồi chờ mấy dì, bên bờ sông, buổi chiều, các dì đi về từ Tùng Sơn, An Ngãi, sau những chuyến đi, về, mua bán gian nan vất vã. Anh và mấy đứa em chờ dì về để được cái kẹo cái bánh, để tuổi thơ của anh chị em anh được an ủi vỗ về.

Không hiểu vì sao, nhìn cô giáo trẻ Bắc Kỳ có giọng nói rất Hà Nội ngọt ngào này anh lại lang mang nhớ về tuổi thơ mình nơi vùng trời quê ngoại. Và cái thiên đường tuổi thơ đó bây giờ ra sao, lần lược các dì, các cậu cũng theo má anh mà ra đi. Còn anh, trôi nổi khắp bốn phương trời để rồi chợt một ngày rơi vào cái địa ngục, và mười năm trong chốn địa ngục đó, anh đã nghe, đã thấy, đã nếm trải bao điều, để bây giờ đây, khi đã, may mắn hơn một số người khác, anh bước ra khỏi cái địa ngục đó, trở về. Trở về với những di chứng không bao giờ chữa trị được. Không thể nào chữa trị được.

***

 

Ngân xuất hiện rất nhẹ ở cửa. Nàng ngập ngừng giây lát, bối rối, ngạc nhiên nhìn anh. Nàng đứng lặng yên ở cửa, hai tay ôm cặp, bàn tay gầy guộc còn bám bụi phấn trắng. Anh cũng nhìn nàng lặng lẽ. Một cơn nhói ở ngực bên trái, cơn đau buốt xoáy như một mũi dao, một luồng khí lạnh chạy nghèn nghẹn nơi sống lưng rồi đọng lại ở não. Anh không đứng dậy được. Ngồi bất động nhìn Ngân.

Ngân bước đến trước anh, hai tay buông thỏng, chiếc cặp rơi trên sàn. Nàng cúi xuống để hai giọt nước mắt loang trên nền xi măng lạnh:

-        Anh về khi nào?

Nàng cố gắng nén nỗi xúc động, hỏi anh.

-        Mười năm nay, em không biết anh sông chết phương nào. Không biết ai để mà hỏi thăm.

Nàng đưa bàn tay gầy guộc bám đầy bụi phấn sờ lên má anh.

-        Trời ơi, sao anh tàn tạ thế này! Mười năm nay anh ở những đâu?

Hình như hơi ấm nơi bàn tay gầy guộc của nàng chuyền vào anh chút hơi của sự sống, anh dần dần thấy cơn đau buốt dịu đi, anh đưa tay nắm bàn tay nàng:

-        Tôi vừa mới về, mới vừa trở lại đây, trưa nay. Ngân có khoẻ không?

Anh không dám hỏi chuyện chồng con của nàng. Anh muốn giữ nguyên hình bóng của nàng, của một thời thanh xuân xa.  Muốn giữ nguyên trong lòng anh bóng dáng yêu kiều của nàng trên con đường chiều ven biển Qui Nhơn, những đêm hai người ngồi lặng im nghe sóng vỗ rì rào và nhìn những ánh đèn của các thuyền câu chập chờn ngoài biển đêm.

Ngân, sau phút bồi hồi xúc động, nàng cúi xuống ôm cái cặp lên, không nhìn anh nữa, nàng mở chiếc cặp, rút ra một tờ báo cũ, đưa cho anh bằng đôi tay gầy guộc và run run vẫn chưa sạch hết bụi phấn. Anh cầm tờ báo cũ, từ tay nàng. Anh lướt nhanh, tờ báo khổ to, in trắng đen trên một loại giấy nhật báo bình thường: TUẦN BÁO KHỞI HÀNH. Cầm tờ báo cũ trong tay, một âm vang gì đó gỏ vào tim anh xao xuyến.

-        Anh về răng không báo trước cho Ngân? Anh ở đâu? Anh có nhớ tờ báo ni không?

Anh không trả lời nàng, cầm tờ báo cũ trong tay và cả một vùng trời hai mươi mấy năm về trước hiện ra trong anh. Những Trần Hoài Thư, những Phạm văn Nhàn, Phạm Cao Hoàng, những Uyên Hà, Phạm Ngọc Lư, Hạ Đình Thao…Những ngày khoác cái áo dù rằn ri có thêu chữ press trên túi áo, lang thang khắp vùng trời khói lửa miền Trung, những chiều dăm thằng tụ tập ở quán sách Văn Nghệ của Thông để đọc những bài thơ, những truyện ngắn của bạn bè, những đêm chong đèn ngồi viết, và những chuyến đi. Những thành phố đã sống, đã ngang qua. Nơi nào cũng đầy ắp kỷ niệm, nơi nào cũng thấp thoáng bóng hồng, nơi nào cũng có những cuộc tình đẹp như nụ hoa còn đọng sương. Và những con đường đầy mìn, đầy hố, đầy ụ, đầy những chướng ngại và hiểm nguy. Nơi nào cũng thế, đến vui dăm hôm, đi ngậm ngùi dăm phút. Vẫy tay từ biệt và hẹn hò. Những câu hẹn hò trở lại, không bao giờ thực hiện nổi. Chiến tranh càng khốc liệt, ngăn cách càng dài ra. Thỉnh thoảng nằm ở nơi này, nhận được tin thằng bạn ở nơi kia vừa tử thương. Những người con gái, một lần gặp gỡ, một lần rung động, chưa nói lời yêu thương, rồi cũng xa lắc ngàn trùng.

Cũng như anh và Ngân. Gặp nhau, chưa một lần, chưa bao giờ thốt ra một câu yêu đương, chỉ lặng lẽ đi bên nhau, lặng lẽ nhìn trời, nhìn mưa và nhìn sâu vào lòng mình, để thấy mình không thể. Không thể. Tương lai mù như khói lửa chiến tranh.

Ngân vói tay lật trang báo mà nàng đã gấp sẵn, dấu gấp hình như cũng lâu lắm, anh thấy một bài thơ, bài thơ của anh đề tặng Ngân. Kể từ cái ngày có in trên trang bìa tờ báo, đến bây giờ, lúc anh đang ngồi trước Ngân, dễ chừng hơn hai mươi năm. Hơn hai mươi năm Ngân cất giữ tờ báo, luôn để trong cặp, và có lẽ nàng cũng thường đem ra đọc, bài thơ anh tặng nàng.

Lòng anh ấm lại, và nỗi nặng trĩu trong lòng cũng vơi đi. Anh gấp tờ báo, đưa cho Ngân.

-        Cám ơn Ngân, cám ơn.

Nàng lặng lẽ cất tờ báo vào cặp.

-        Thời gian qua anh ở những đâu, anh vừa từ đâu đến đây?

Anh nhìn nàng, cười buồn, nhớ đến cô chủ quán café gương mặt sầu não xa xôi.

-        Từ địa ngục. Tôi về từ địa ngục.

-        Anh?!!!

Mãi đến lúc này nàng mới nhìn đôi tay anh, nhìn kỹ khuôn mặt anh, những vết sẹo ngang dọc, trơ xương. Nàng buột miệng.

-        Anh!

Và đôi mắt Ngân long lanh nước mắt.

-        Sao đến nông nổi này anh?

-        Đó là chiến tranh, Ngân ạ. Đó là sự thù hằn và cách trả thù man rợ. Và đó là con người. Ngân biết không, đó là con người, con người trong thời đại. Tôi hút thuốc được không?

Anh vừa nói vừa móc gói thuốc ra.

-        Thôi, chúng ta ra phố thôi anh.

***

 

Anh đứng lên, theo Ngân, chào những người ngồi ở văn phòng, và không quên đảo mắt tìm cô gái người Bắc có giọng nói Hà Nội ngọt ngào, nhưng không thấy cô ấy đâu.

Anh bước ra đường, đi bên Ngân, hướng về bờ sông. Trời đã dứt mua nhưng âm u và nặng nề. Hai người đi bên nhau, yên lặng, như đã từng, không biết bao nhiêu buổi chiều mùa đông, bao nhiêu buổi chiều mùa thu, bao nhiêu buổi chiều mùa xuân, bao nhiêu đêm mưa phùn lất phất. Họ đi bên nhau, không nói một lời, nhưng đẹp vô cùng, phải không Ngân. Bây giờ thì không phải ngày xưa rồi. Mỗi người một nỗi niềm riêng. Sẽ không bao giờ còn nhìn về một vì sao, không bao giờ cùng nhìn một khoảng trời đêm có ánh đèn thuyền câu bập bềnh ngoài khơi. Và hương ngọc lan ngày nào cũng đã tàn phai.

Bây giờ, anh trở về như con thú mang đầy thương tật, mòn mỏi, già nua, và để rồi cuối cùng không thể hiểu vì đâu. Vì đâu đã mất hết.

-        Anh biết không, nàng nắm lấy tay anh, gần hai mươi năm nay, em đã đọc bài thơ đó, những lúc buồn bã cô đơn, em đọc bài thơ, và lúc nào em cũng khóc, em không hiểu vì đâu, anh viết ra chi cái điềm báo đau buồn đó.

-        Tôi có muốn viết như thế đâu. Chỉ là dự cảm. Và thơ, thơ đôi khi có cái chức năng màu nhiệm của nó.

***

 

Ra đến bờ sông, nàng kéo anh vào một quán café, nhưng anh giữ tay nàng lại:

-        Chúng ta lên chỗ ngã tư Lê Lợi Phan Chu Trinh, ở đó có một quán café, trưa nay tôi đã ngồi ở đó trước khi đến tìm Ngân.

Nàng nhìn anh cười buồn:

-        Sao anh không nói với em một lời gì đi anh!

-        Ngân muốn tôi nói một lời gì?

Anh dừng lại, châm thuốc, khói thuốc lan trên mặt nhoè như màn sương.

-        Một lời gì! Chúng ta mất hết rồi Ngân biết không. Tất cả anh em chúng ta còn không ngồi cùng với nhau được, thì nói gì đây. Lòng hận thù vẫn chưa nguôi. Ngân nhìn đi. Nhìn tôi. Nhìn chồng của Ngân. Nhìn anh Hai của Ngân. Còn gì. Còn gì. Lòng thù hận chưa nguôi, thì sự trả thù còn mãi.

Ngân, hai con mắt đỏ hoe, rơm rớm:

-        Không, Ngân không muốn nghe, Ngân không muốn nghe những điều đó. Sao anh không nói một lời, một lời yêu em, anh, hả anh?

Vâng, phải rồi, ngày xưa, anh chưa nói một lời yêu Ngân, Biết làm sao! Cái chết đến bất cứ lúc nào. Chỉ một tiếng nổ khô khốc và lạnh lùng, ở bất cứ đâu, dưới hào sâu, trên ruộng cháy. Tam Quan. Bồng Sơn. Sa Huỳnh. Mộ Đức. Tiên Phước. Trà Mi…Đôi khi ngay trong lòng thành phố. Một trái lựu đạn, một trái mìn. Làm sao nói lời yêu em, làm sao gắn bó số phận của nàng vào anh. Thôi đành chẳng nói gì. Đừng ràng buộc vào nhau. Còn bây giờ, dẫu có thốt lên ngàn lần, thì phỏng ích gì, sẽ thay đổi được gì, mỗi người đã được định bởi cái mệnh của mình, phải không Ngân? Mỗi người đều đã có một lối ngoặc của mình, và cam đành đi trên cái lối ngoặc đó, có muốn xoay chiều đổi hướng cũng không kịp nữa rồi, chỉ còn một chút hi vọng hão huyền là ở một cõi khác, không phải cõi trăm năm của con người, cái cõi chỉ có trong mơ ước, để tự vỗ về mình, tự an ủi mình, tự đánh lừa mình, để sống, sống vì những ràng buộc, những hệ lụy mà kiếp người phải chịu.

***

 

Cô chủ quán vẫn ngồi lặng yên sau quầy, như thể cô chỉ là một bức tượng được người ta trưng bày ở đấy để tưởng niệm một người, một ai đó đã không còn trên thế gian này.

Anh đưa Ngân đến chỗ mà trưa nay, trước khi tìm Ngân, anh đã ngồi, tách café nguội ngắt, cốc trà uống dở, vài mẫu tàn thuốc vẫn nằm nguyên ở đó, như chính anh chưa hề rời quán bao giờ.

Cuối cùng cái bức tượng đó cũng đứng lên, uể oải, lạnh băng, tiến về chỗ anh và Ngân đang ngồi, chẳng tỏ một nét chào hỏi nào, nàng đặt một tay lên vai Ngân.

-        Chị Ngân, hai người là bạn nhau à?

Ngân kéo nàng ngồi xuống ghế bên cạnh:

-        À, đây là anh Triều, gần mười năm rồi mình mới gặp lại.

Nàng nhìn con người “về từ địa ngục” trưa nay đã ngồi đây, khắc khổ và cay đắng.

-        Còn đây là Hương, bạn em, chồng chị ấy không còn, anh ấy mất đúng vào cái giờ khắc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Anh nghiêng người trước người goá phụ, không nói gì. Bên ngoài trời lại bắt đaầu rắc mưa bay bay và bóng tối nhòa nhòa dưới những ngọn đèn vàng khè bệnh hoạn.

-        Em nhớ có biết anh, nhưng không quen. Trưa nay em còn ngờ ngợ, cố lục tìm trí nhớ, vẫn không biết đã gặp anh ở đâu, cái tên thì nghe quen, vì em có đọc mấy tạp chí.

-        Cám ơn Hương. Anh nói rất nhỏ và nhìn hai cánh tay trần trắng như sữa của nàng, lơ thơ những sợi lông măng, tự dưng anh muốn hôn vào hai bàn tay gầy guộc của Ngân vẫn còn bám màu trắng của phấn.

***

 

Anh đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác.

Hương đã về ngồi lại sau quầy, yên lặng, bất động, như một pho tượng.

Ngân lại lấy tờ báo cũ từ trong cặp ra.

-        Một lần, đứa con gái của em, tình cờ, thấy em đang đọc bài thơ, cháu mượn tờ báo, đọc một lát, rồi trả tờ báo lại cho em, quay măt đi, dấu hai con mắt rơm rớm. Cháu không nói gì, chỉ hỏi em: “Chú ấy bây giờ ở đâu? Mẹ?” Em ôm cháu vào lòng, nghe tiếng cháu nức nở nơi ngực em. Em bảo cháu: “Mẹ không biết con à. Mười năm nay mẹ không có tin tức gì của chú ấy”. Và em phải nói, ít ra để cháu khỏi buồn: “Mẹ vẫn luôn kính trọng ba con và yêu thương các con, yêu vô bờ, con ạ. Đừng trách mẹ”.

Anh nghe cay đắng trong lòng, và một nỗi xót xa khôn cùng, hơi lạnh ngoài trời tạt vào như một nhát kim loại làm nhói đau phần ngực trái của anh, anh rung mình thở hắt ra và vội nắm tay Ngân, anh nghe tiếng Ngân mơ hồ:

-        Sao anh không nói với em một lời gì đi anh?

Bên ngoài, ánh đèn điện vàng khè, hiu hắt qua màn mưa bụi. Anh đưa mắt về phía quầy, cô chủ quán, Hương, đã không còn ở đó, để lại một khoảng trống lạnh lẽo.

Bức tượng. Làm sao thay một bức tượng khác, anh nghĩ trong lòng, ừ nhỉ, bao giờ thì thay một bức tượng khác, ở đấy, sau quầy.

(Mùa đông 1984)

LÊ VĂN TRUNG 


Thursday, January 28, 2021

Truyện ngắn: Mỗi Người Là Một Nỗi Niềm Riêng

 

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT NỖI NIỀM RIÊNG

Nàng, người con gái của hơn mươi năm trước, như một đóa hồng dại vừa nở trong một sớm mai đầy sương đỏ thắm nổi bật giữa đồng cỏ xanh biếc.  Bạn thử nghĩ xem, có gì rạng rỡ bằng, có gì xinh đẹp bằng, có gì trong trắng bằng.  Giá như cuộc đời của một con người, thời gian chỉ đọng lại ở đó, vĩnh cửu. Giá như sắc màu tươi thắm của đóa hồng kia không tàn phai. Giá như thảm cỏ kia mãi mãi rờn xanh. Giá như những giọt sương kia cứ mãi lấp lánh dưới ánh ban mai … và giá như tất cả đọng lại ở đó. 

Lần đầu tiên em cảm thấy trái tim mình rung động, một nỗi niềm rung động không tên. Em chẳng hiểu vì đâu. Và em cũng không còn phải hiểu vì đâu. Từ trên hành lang tầng hai của khu nội trú, em nhìn xuống khoảng sân có trồng nhiều hoa tường vi màu hồng phấn quanh những lối đi nhỏ vòng vèo rải sỏi, em nhìn thấy anh, nhìn thấy nhiều người. Anh đi tới đi lui bắt tay chào hỏi bất cứ ai nhưng em thấy anh lấp lánh như một ánh nắng, từng bước anh đi là từng bước sáng lung linh.  Em nhìn dõi theo anh như nhìn theo từng vạc nắng. Anh là ai?  Em đâu biết!  Từ trên cao không nhìn rõ được anh.  Anh không một lần ngước lên nhìn em.  Anh không biết em đang đứng đây, tựa balcon trên tầng này, với anh em không hiện hữu. Em muốn hét lên cho anh nghe, cho anh biết đang có em, một người con gái mười tám tuổi trái tim thắt quặn lên một nỗi đau diệu kỳ, một nỗi rạo rực diệu kỳ, một nỗi sợ hãi diệu kỳ, như lần đầu em bỗng thấy một vệt máu đỏ tươi thấm qua làn vải lót. Em hoảng loạn bàng hoàng, rồi khóc, em khóc một mình, rồi sợ, em sợ một mình, rồi lo âu, em lo âu một mình. Từ đó, em xa dần lũ bạn nhỏ, em không nhảy lò cò, em không chơi thẻ. Em thường ngồi một mình, một mình ngồi nhìn vạc nắng ngoài hiên, thấy vạc nắng chập chờn, và em như người say dù em chưa biết người say như thế nào. Cái bóng nắng ấy, cái vạc nắng ấy, bây giờ ở dưới kia, bên những khóm tường vi. Em muốn kêu lên nhưng không biết kêu ai. Anh là ai?  Hỡi cái bóng nắng diệu kỳ đó. Anh không nghe được tiếng em hét vì tiếng vọng từ trái tim em chưa đủ sức vang xa.  Em đưa tay ấn mạnh vào bên trái phần ngực mình để cảm nhận một cách xót xa nhịp đập dồn ứ của con tim.

Bỗng dưng anh ngước nhìn lên.  Em giật bắn người. Vừa xây xẩm vừa hồi hộp vì quá xao xuyến.  Ánh nhìn anh như một tia nắng bỏng cháy. Em không thể quay mặt đi.  Em đứng nguyên như một tảng đá và cảm thấy cái lạnh buốt từ dưới lòng bàn chân chạy ngược lên.  Trong khi đó từ trong từng mạch máu trong cơ thể em lại cuộn lên và trào tuôn.  Em thấy anh đưa tay vẫy chào và rướn nhìn mặc dù bấy giờ mắt em đã nhòa vì cái tia nắng diệu kỳ từ phía anh. Cái nhìn ấy, tia nắng ấy đã làm em chết đi trong một giây phút ngưng đọng của thời gian. Em cảm nhận được rằng cái nhìn ấy, tia nắng ấy sẽ theo em mãi mãi, suốt cuộc đời em.

*

*     *

Khi em sinh ra thì đã không thấy cha.  Lúc đó em thường hỏi mẹ, nhưng lúc nào mẹ cũng lãng tránh không trả lời. Người ông mà em gọi bằng ông nội, mẹ nói ông thương em lắm, nhưng em lại không dám hỏi. Nhưng có một lần, năm ấy hình như em năm sáu tuổi gì đó, mẹ ôm em vào lòng, mắt mẹ rơm rớm, mẹ hôn lên trán em:

-        Ba con đi làm xa lắm.

-        Nhưng lâu quá sao ba không về hả mẹ?

Mẹ không trả lời em, nhưng có lần em nghe ông nội nói với mẹ:

-        Có tin là ngày tổng tuyển cử, ba con L. sẽ về.

Em không hiểu ngày tổng tuyển cử là cái ngày ra làm sao.  Nhưng em vẫn thắt thỏm đợi chờ. Em tưởng tượng cái ngày ấy cũng gần kề, có thể qua một đêm ngủ vùi, khi thức dậy thì cái ngày ấy đã đến. Em tưởng tượng đến người đàn ông mà em sẽ gọi bằng ba, có lẽ ông đẹp lắm, ông dễ thương lắm, nếu không sao ông nội và mẹ hay nhắc đến ông với vẻ bí mật và mang mang tỏa ra nơi gương mặt của hai người.  Mẹ chưa bao giờ nói với em ba đi đâu, vì sao phải đi xa và lâu như vậy.  Thực ra thì lúc bé em cũng hờ hững, ít quan tâm nhiều về ba.  Trong nhà, ngoài em, chỉ có ông nội và mẹ.  Ông thì nghiêm nghị, ít nói. Ông thường ở một mình nơi gian nhà trên, đọc sách.  Em chỉ gặp ông ở bữa ăn, nhưng em thường nuốt vội vàng chén cơm để chạy đi chơi với mấy đứa bạn.  Mẹ chạy ra chợ suốt ngày, tối mới về. Hình như trong nhà dù chỉ có 3 người nhưng có ba thế giới riêng. Ông thì sống với những bóng hình của quá khứ. Mỗi khi nhìn ông thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên là em có cảm tưởng ông không thuộc thế giới hiện tại này. Em không biết ông thương nhớ quá khứ hay tiếc nuối những mất mát đã qua trong cuộc đời dài gần thế kỷ của ông.  Mẹ có chút nhan sắc nhưng hình như nỗi đợi chờ vằng vặc đã làm mẹ héo úa. Mẹ bươn chảy suốt ngày trong cái thế giới hiện tại nhưng tâm hồn của mẹ vật vờ đâu ở cuối chân trời. Em không hiểu tình yêu là gì, nghĩa vợ chồng là gì, nên cũng chẳng đồng cảm xót xa với mẹ. Thậm chí lúc mẹ ôm em vào lòng và sụt sùi khóc, em cũng chỉ thấy hơi thương thương mẹ mà không hiểu sâu hơn vì đâu mà mẹ khóc. Vắng một người hay có mặt một người nữa trong nhà, em nghĩ cũng vậy thôi, chẳng có gì thay đổi.  Một người nữa đến thì cũng đến với một thế giới riêng của người đó.

Em không hiểu cô đơn là gì, và cái nỗi cô đơn có làm cho em khóc hay không, hay có khi chính sự cô đơn làm cho lòng em lắng lại và bình yên hơn.

Sau này khi càng ngày càng lớn, em thường ngồi một mình – dĩ nhiên là rất hiếm – suy nghĩ bâng quơ đủ thứ mà chẳng ra chuyện gì.  Đôi khi cũng cảm thấy trống vắng như thiếu thiếu một cái gì, rồi chẳng biết trước cái gì, thấy mất mát một cái gì rồi cũng không biết mất cái gì, thấy tiếc tiếc một cái gì rồi chẳng biết tiếc cái gì, thấy buồn buồn nhưng lại vui vui cười một mình.

*

*    *

Hình như em không còn nhỏ bé nữa. Em hai mươi rồi. Nơi một ngôi trường nhỏ heo hút nằm sâu trong một làng quê mái lá đã bị dột ướt vào mùa mưa và trời khô nắng xuyên qua chập chờn. Con đường


Đọc không được chỗ này


Hai năm trôi qua rồi từ cái ngày trời đất run rủi cho em nhìn thấy anh, cái tia nắng lấp lánh từ đôi mắt anh cho đến bây giờ vẫn còn bắn vào em một nỗi ấm áp diệu kỳ. Với em, anh hiện hữu vừa như một vật thể hữu cơ, vừa như một ảo ảnh chiêm bao, nhưng dầu ở trong trạng thái nào, anh, con người em chỉ được nhìn thấy một lần, không biết tên tuổi, vẫn chập chờn từng thời khắc trong em, khi thức cũng như khi ngủ. Nhưng với anh, chắc chắn chẳng còn nhớ gì đến em, chẳng còn nhớ gì cái buổi sáng định mệnh cho em nhìn thấy anh. Anh không nhớ gì, cho dù, trong cái buổi sáng kỳ diệu đó anh đã ngước mắt nhìn em và vẫy chào. Cho dù em biết cái vẫy chào ấy là phong cách lịch thiệp của một bậc hào hoa, anh nhìn em, anh vẫy tay với em, đơn giản cũng như với bao cô gái khác, rồi anh quên, anh chẳng bận tâm. Mà anh chẳng bận tâm một chút gì cũng đúng thôi. Anh và nhóm bạn anh ở dưới sân đang chờ ngày vào quân trường. Thời chiến mà! Em ghét cay ghét đắng chiến tranh.  Rồi anh sẽ ra đi như những chiến binh. Sống chết không lường. Anh cũng phải bắn giết.  Anh cũng phải băng mình lội suối. Rồi trong suốt hành trình của đời lính anh chẳng bao giờ mang theo hình bóng em. Anh có biết em là ai đâu. Cái nhìn của anh, cái vẫy tay của anh chẳng lưu dấu bóng hình em. Anh không có em trong anh. Nhưng anh đi, em mãi dõi theo anh, cho dù chân trời góc biển.

*

*     *

Ông nội đã mất gần hai năm nay, ông ra đi mang theo cái hy vọng ngày tổng tuyển cử, nhưng mẹ vẫn thắt thỏm đợi chờ. Bây giờ em đi xa, mẹ ở nhà một mình, một mình với nỗi đợi chờ vô vọng làm héo úa từ linh hồn đến thể xác bà.  Không hề có một mẫu tin nào nhỏ nhoi về người cha của em. Em cũng đợi chờ, nhưng không đợi chờ như mẹ, em đợi chờ vì sự tò mò.  Người đàn ông mà em sẽ gọi bằng ba ấy ra sao. Bây giờ thì em đã hiểu ông đi đâu, đi từ lúc nào, bởi khi em lớn khôn mẹ đã không còn giấu diếm.  Em chỉ thắc mắc có một điều là, em, mẹ em, bà con xóm giềng vẫn sống, vẫn bình an, vẫn được hưởng những nhu cầu là một người dân bình thường có quyền được hưởng, vậy thì tại sao, ba, những người nào đó lại phải vất vã, chịu gian khổ để gọi là giành lại tự do cơm no áo ấm cho chúng em. Em thấy mình chẳng thiếu gì, được nuôi nấng dạy dỗ ăn học đầy đủ.  Em chỉ thiếu duy nhất một điều:  Đó là anh.  Hay ông trời ổng cũng công bằng: Không ai có đủ tất cả, ít nhất phải thiếu một cái gì. Nhưng cho dù ba có gian nan vất vã, ba cũng không thể nào mang đến cho em.

Có những con người khi sinh ra ở đời họ tự nhận mình có một nghĩa vụ cao cả nào đó, tự dán cho mình phải gánh vác lấy trọng trách bảo vệ và giáo dục dân chúng, họ thấy họ vĩ đại, họ phải là anh hùng, họ phát động những cuộc chiến tranh đẫm máu. Tất cả những việc họ làm, ở điểm nào đó mang một góc độ sâu sắc và chân thật, nhằm thỏa mãn lòng kiêu ngạo và ảo tưởng về tính siêu việt trong con người họ. Họ có hiểu chăng một tình yêu vô bờ từ trái tim người mẹ, người vợ, họ có hiểu chăng niềm cô đơn và nỗi khát khao một hạnh phúc bình thường, giản dị. Có thể những người như ba em, đôi khi cảm thấy mình cũng chẳng lớn lao vĩ đại gì, nhưng vì bị tác động quá mạnh bởi những học thuyết, bị ru ngủ bởi những cám dỗ, bị lôi kéo bởi những tham vọng như một Hitler chẳng hạn. Hoang tưởng và kiêu ngạo.

-        Hôm nay là ngày giỗ ông nội của cháu.

Chị chủ nhà nói khi em đang sữa soạn đến trường.

-        Cô vui lòng thu xếp về sớm sớm để dùng cơm với gia đình cho vui.

Em thấy nét mặt chị có vẽ rạng rỡ, khác với vẽ buồn buồn lam lũ thường ngày.

-        Ba cháu có mời mấy người từ chiến khu về nữa.  Chị nhìn em nói tiếp.

-        Vâng, em sẽ thu xếp về để cùng chị nấu nướng.

Ông bố chồng của chị, hồi năm ngoái, đã bị giết trên đường từ ngoài ruộng về khoảng nhá nhem tối.  Những người thực hiện vụ mưu sát đã để lại bên xác ông cụ một mảnh giấy có ghi mấy dòng: “Ai làm tay sai cho địch thì hãy xem cái gương này”.

Tôi gặng hỏi chị:

-        Ông cụ làm gì mà chết thảm như vậy?

Chị vo tròn đôi mắt nhìn tôi, như vẫn còn tỏa ra nỗi bi hài của sự việc.

-        Cô biết ông nội cháu làm đến chức gì không? Liên gia trưởng cô à! Đến lúc chết thật chẳng biết đâu vào đâu.

Chị kể là anh im lặng mang xác cha về chôn, đôi mắt lầm lầm lì lì, không khóc một tiếng, không nói với ai câu nào. Ba ngày sau mở cửa mã, anh tình nguyện đi nghĩa quân, để lại đất đai ruộng vườn cho chị.

-        Hình như anh biết ai đã giết cha mình.  Chị không biết anh toan tính gì trong đầu.

*

*      * 

Hôm nay tròn đúng hai năm kể từ ngày em nhìn thấy anh dưới khoảng sân có trồng mấy cụm tường vi màu hồng phấn và những lối đi rải sỏi trắng. Từ trên tầng hai khu nội trú, em, cô gái mười tám tuổi, bàng hoàng, ngộp thở bởi cái nhìn của anh như một tia nắng.

Hai năm trôi qua, không lúc nào mà cái tia nắng diệu kỳ đó không lung linh trong em. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi em thức cũng như khi em ngủ, khi em đi dạo cũng như khi em ở lớp học.  Có lần mẹ em nhận ra cái vẻ thẩn thờ của em, bà nói:

-        Này con, coi bộ si tình chàng trai nào rồi phải không?

Em giả bộ dỗi hờn mẹ.

Nhưng mà em có si tình anh đâu. Em có biết anh là ai đâu. Em chỉ bị ám ảnh bởi cái vẻ sáng diệu kỳ tỏa ra từ anh, từ đôi mắt anh. Em nào dám hỏi ai về anh, em xấu hổ và kiêu ngạo. Em không muốn ai biết một tí gì về những xao động trong lòng em.  Dù em có biết một vài người trong số bạn của anh, nhưng họ cũng rất xa lạ, em không muốn, em chỉ muốn duy nhất một mình em, một cô gái mười tám tuổi, lần đầu tiên nghe tim mình quặn lên niềm đau diệu kỳ, niềm đau làm cho ta ngây ngất, làm cho ta vừa xốn xang hạnh phúc, vừa ray rức êm đềm, nhưng tuyệt nhiên không có một điềm báo gì về một nỗi bất hạnh.

Lần đầu tiên gặp ba như thế nào, em không biết, nhưng mỗi khi nhìn mẹ ngồi lặng im bên bậc thềm, mắt hướng về một cõi nào xa lắc, em nghĩ nỗi thương nhớ trong đợi chờ của mẹ nó dữ dội lắm. Và chắc chắn em không giống mẹ.  Mẹ ba là tình nghĩa phu thê, là vợ chồng, máu thịt của họ đã hòa vào nhau, tâm hồn của họ đã tan vào nhau. Còn em với anh, hai con người không hề quen biết, chúng ta không là của nhau, và có thể chẳng bao giờ là của nhau.  Em không như mẹ, mẹ chờ đợi ba mõi mòn, em chẳng chờ đợi anh, không chút hy vọng gần anh. Với em, anh chỉ là tia nắng, cái tia nắng rọi vào em cho đến bây giờ vẫn còn lung linh.

Vâng, hai năm đã trôi qua, nghe đâu anh và bạn bè đã vào quân trường từ dạo đó.  Em không hình dung được anh-người-lính ra làm sao. Em ghét chiến tranh.  Tại sao người ta phải chém giết nhau. Không biết anh có muốn giết ai không, cho dù đó là kẻ giương súng bắn anh? Em không muốn tin rằng anh sẽ làm được cái điều kinh khủng đó.  Nhưng phải làm sao để kẻ khác không nhắm vào anh mà nổ súng. Ôi cái học thuyết nào có thể dẫn dắt loài người thoát khỏi cái họa chiến tranh.

*

*     * 

Em đang sửa soạn cho học trò nghĩ sớm một chút để kịp về phụ với chị chủ nhà, nhưng bỗng dưng một loạt đạn nổ xé trời làm em giật bắn mình và lủ học trò la lên í ới.  Không chờ em cho phép, chúng vụt chạy ào ra cửa, đứa nọ xô đẩy đứa kia. Khi em đã hoàn hồn lại thì lớp học đã vắng ngắt. Em vội ôm cái cặp ba chân bốn cẳng chạy về nhà trọ. Vừa đến cổng, một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt: Một chiếc xe jeep nhà binh lật nằm nghiêng bên mương nước trước nhà, người tài xế gục đầu vào vô lăng, hai tay vẫn chưa buông tay lái, máu từ ngực anh còn chảy xuống sàn xe. Trong sân, chị chủ nhà đang ôm một ông quân nhân, ngồi gục đầu khóc ngất. Thằng cu con chị đứng sững nhìn mẹ, nó đang không biết chuyện gì vừa xảy ra và không biết làm gì. Thấy em vào nó chạy nhào tới ôm chân em khóc òa. Nó chỉ nơi góc sân một người lính đang ôm cái chân toe thịt đỏ lòm rên rỉ. Em vụt chạy đến.  Người sĩ quan mang quân hàm thiếu úy ấy đang nhắm nghiền mắt nhăn nhó vì đau đớn.

-        Tôi phải làm gì đây anh ơi! Em lay vai anh ta và gọi.

Anh mở mắt nhìn em.  Dù đau đớn nhưng cái ánh nhìn đó rọi vào em như một tia nắng.  Em, trong giây phút bàng hoàng nhắm mắt lại, rồi mở ra.  Anh ta đã nhắm nghiền mắt lại.  Chỉ có đôi môi đỏ như môi con gái của anh đang mấp máy.  Em kê tai sát vào.  Sau khi đã cố nghe và cố hiểu anh nói gì, em vội chạy ra xe đang bị lật, chui vào xe ì ạch tìm kiếm, cuối cùng em cũng mang ra được một khối kim loại nặng nề có dây nhợ tùm lum.  Khi đã mang được vào cho anh, em mới biết đó là cái máy liên lạc vô tuyến.  Anh đang loay hoay xé cái áo trong và bảo em lấy quấn vào phần đùi trái nơi máu đang chảy ra đỏ thắm và tươi rói. Trong lúc em băng bó cho anh thì anh nói gì đó vào máy. Xong, anh nhìn em và nói cám ơn. Lại với ánh nhìn đó. Cái nhìn dù trong cơn đau đớn vẫn rọi vào em như một tia nắng ấp áp lạ thường. Em chạy đến người phụ nữa đang ôm người lính, chị nhìn em và khóc dữ dội:

-        Ảnh chết rồi, anh ơi đừng chết anh ơi, đừng bỏ em với con một mình!

Em lặng người. Trời ơi, chồng chị đấy. Ngày giỗ cha chưa kịp thắp nhang lên bàn thờ. Máu nơi vết thương trên đầu anh thấm ướt áo chị. Thằng bé chừng đã hiểu cái tai họa vừa giáng xuống, nó ôm cái đầu ba nó, gục cái mặt non thơ của nó vào, nó khóc không thành tiếng. Em loay hoay vụng về, vừa sợ vừa quá xúc động, em ôm thằng bé, nó ngước nhìn em, khuôn mặt trẻ thơ vấy đầy máu đỏ từ vết thương của ba nó. Em mang đến cho người sĩ quan một cốc nước và nâng đầu anh dậy để anh uống từng ngụm.  Anh mở mắt nhìn em tỏ vẻ biết ơn.  Lại cái tia nhìn kỳ diệu đó.

Tiếng động cơ ô tô vang ầm ầm trước lộ, em ngước mắt nhìn ra, nét mặt anh thoáng vui, anh nói mõi mệt rời rạc:

-        Các bạn tôi đã đến.

Quả nhiên một đám lính đông đến vài ba chục người, tay lăm lăm súng, phân thành hai ngã chạy vây quanh khu vườn nhỏ.  Hai người lính cáng anh trên một cái băng ca vội vàng chạy lúp xúp ra lộ. Họ khiêng luôn người tài xế và anh chồng chị chủ nhà ra xe, chị bấu theo khóc lóc thảm thương. Họ bỏ chị và cháu nhỏ lên xe, rồi cả toán lính rút đi để lại cái im lặng ghê người nơi căn nhà đang bừa bộn nồi niêu chén bát thịt cá.

Em đóng cửa lại ngồi khóc một mình. Sao bỏ em một mình thế này.

Một loạt đạn.  Hai người chết. Một người bị thương.  Thêm một góa phụ. Một đứa bé mồ côi cha.

Thế đó! Chiến tranh!

Họ giết nhau vì cái gì nhỉ? Em chẳng hiểu gì cả.

Người sĩ quan ấy là ai? Em cứ cố tin rằng đó là anh. Cái tia nhìn của ánh mắt ấy sao giống anh quá và còn hơn thế nữa, nó cũng làm em chói lòa và run lên vì xúc động. Em để lại cho chị chủ nhà mấy dòng, vơ vội áo quần nhét vào cái túi nhỏ, khóa cửa gửi cho hàng xóm và ra lộ đón xe về nhà.  Mẹ chắc cũng mong em, bà chỉ một mình.

*

*     *

 Sau đó người thiếu nữ có đi tìm viên sĩ quan trẻ tuổi bị thương kia. Nhưng tuyệt nhiên cũng không lần mò ra được. Bởi cô không biết một tí gì về anh, tên tuổi cũng không, không biết số quân, đơn vị. Hỏi chỗ nào người ta cũng lắc đầu và bảo cô về quân y viện hỏi. Cô đến quân y viện hỏi đôi ba lần, không ai trả lời rõ được cho cô. Cô đi từng phòng thương binh đang nằm điều trị xin lỗi nhìn từng người. Không có. Sau cùng người ta bảo có thể anh ta đã được đưa ra hạm đội.  Cô chẳng biết hạm đội là nơi đâu và vì sao những người thương binh đó lại được đưa đi xa vậy.  Cô không buồn. Cũng không đau khổ. Cô chỉ đi tìm cái ánh mắt có tia nhìn rọi vào cô như một ánh nắng và lòng cô ấm lại mỗi lần nhận được cái ánh sáng ấy.

*

*     *

Kẻ viết lại truyện này đang ngồi trước mặt cô và nghe cô kể câu chuyện nhỏ về cô gần hai mươi năm về trước.

Bây giờ cô đã là một thiếu phụ ở cái tuổi trên dưới bốn mươi, không chút hương sắc tàn phai, vẫn còn phảng phất một vẻ đẹp thầm lặng, cái vẻ đẹp chỉ có ở những phụ nữ sống trọn với nỗi đợi chờ, tìm kiếm một cái gì đó xa xôi mờ nhạt mà đẹp vô cùng.

New Viet Art

Lê Nam Phương

24. 7. 2011

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xin hãy vì thơ - Xuân Chín Phương Người - Xuân muộn

 Xin hãy vì thơ - Xin về lại - Xuân Chín Phương Người - Xuân muộn

XIN HÃY VÌ THƠ

Xin hãy vì thơ mà ngồi lại
Ga đời
Chờ một chuyến tàu qua
Và xin thắp lại niềm quên lãng
Gọi vói ngày xanh đã bụi mờ
Xin hãy vì thơ mà quá giang
Bên kia sông
Trắng một triền sông
Có phải mây trời muôn năm cũ
Về đây nhuộm trắng tóc người không?
Xin hãy vì thơ mà đợi chờ
Chờ những chiêm bao, những giấc mơ
Hoàng Hạc bay rồi, bay đi mãi (*)
Lầu xưa vằng vặc, bóng trăng xưa
Xin hãy vì thơ mà trở về
Về! Hãy vì thơ!
Rồi ra đi
Ra đi
Không hẹn
Không hoài nhớ
Nhưng hãy vì thơ!
Đừng quên nhau.
Lê Văn Trung
10. 3. 2021
(*) Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. (Thôi Hiệu)

XIN VỀ LẠI
Ta về lại xin làm người hành khất
Được chạm vào rêu biếc mái hiên xưa
Được cúi nhặt chiếc lá mùa quên lãng
Sợi tóc người bay rối những cơn mơ
 
Xin được ngắm áo vàng bay cánh bướm
Bóng mây chiều ai nhuộm mắt mù sương
Xin được chạm vào tấm lòng nhung gấm
Để nghe mùa ân ái dậy mùi hương
 
Xin được gọi tên niềm quên nỗi nhớ
Những con đường xuôi ngược của đời nhau
Những cánh đồng mùa thu vàng hoa nở
Những bến bờ xưa hò hẹn buổi ban đầu
 
Xin được tắm trong dòng sông trẻ thơ
Lòng xanh biếc buổi trăng vừa hàm tiếu
Ta về lại xin chút lòng niên thiếu
Ươm lấy mầm hy vọng của tương lai.
Lê văn Trung
Tháng Mười 2024

Xuân Chín Phương Người
 

Thôi đừng về!
Đừng về!
Em ơi!
Mùa xuân Em chín tận phương người
Tôi ngồi dưới cội mai vườn cũ
Chợt thấy ngàn hoa cũng lẻ loi
Thôi đừng về?
Đừng về?
Nhe em?
Rêu lòng xuân đã úa bên thềm
Tôi chép bài thơ còn dang dở
Dang dở từng câu những nhớ quên
Thôi đừng về!
Thôi em!
Còn đâu?
Ngày thu tháng hạ cũng trôi mau
Rồi hoa xuân nở phương trời lạ
Có thắm cùng tôi một đóa sầu?
Lê Văn Trung
27. 01. 21

Xuân Muộn

Em bỏ lại bên đường
Nhành hoa tôi nở muộn
Hấp hối một mùi hương
Nương theo tà áo mỏng
Mùa xuân tôi đi qua
Tình xanh còn biếc nụ
Nắng vàng ươm trong mây
Hương vàng bay theo gió
Em bỏ lại bên đường
Giọt sương tôi lấp lánh
Đôi mắt nhuộm hoàng hôn
Sao chiều tôi đăm đắm
Em bỏ lại bên đường
Tôi ngồi thương nhớ tôi
Tôi nhìn tôi nở muộn
Hương còn vương bên trời
     Lê Văn Trung

Ru

  RU Ngủ đi tôi Ngủ đi thôi Đêm sâu hun hút Đêm dài mênh mang Thắp chưa tàn một nén nhang Tôi cầu xin chút bình an cuối cùng Ngủ đi em Mộng ...